Cách mạng Hà Lan Hòa ước Münster

Bài chi tiết: Cách mạng Hà Lan

Cách mạng Hà Lan, hay còn gọi là cuộc Chiến tranh Tám Mươi Năm, diễn ra từ 1568 đến 1648 là cuộc đấu tranh giành độc lập của 7 tỉnh thuộc Hà Lan nhằm giành độc lập từ tay đế quốc Tây Ban Nha. Chính quyền Tây Ban Nha thống trị đã ra sức đàn áp cuộc nổi dậy, nhưng vào năm 1572, quân Hà Lan đã chiếm được cảng Brielle chiến lược, nơi họ sử dụng như một bàn đạp để nhanh chóng mở rộng vùng kiểm soát. Được Pháp và các quốc gia Tin lành như Anh và Scotland hỗ trợ, đến năm 1581 các tỉnh phía Bắc Hà Lan giành được độc lập trên thực tế. Vào giữa thế kỷ 17, Hà Lan đã phát triển thành cường quốc kinh tế và hàng hải hàng đầu thế giới, thời kỳ phát triển kinh tế, khoa học và văn hóa sau này được gọi là Thời kỳ hoàng kim của Hà Lan.

Bất chấp những thành công lớn này, người Hà Lan đã thất bại trong việc đánh đuổi người Tây Ban Nha khỏi các tỉnh giàu có ở miền Nam Hà Lan, bao gồm lãnh thổ BỉLuxembourg ngày nay, và cả phần lãnh thổ là vùng Nord-Pas-de-CalaisLongwy ở miền bắc nước Pháp ngày nay.[lower-alpha 2] Pháp đã tài trợ cho người Hà Lan trong nhiều năm để làm suy yếu triều đình Habsburg, thế lực thống trị mạnh nhất ở châu Âu;[lower-alpha 3] sau Hiệp ước Prague năm 1635, họ chính thức tuyên chiến với Tây Ban Nha và Đế quốc La Mã thần thánh.[2] Năm 1639, hải quân Hà Lan đã tiêu diệt một hạm đội Tây Ban Nha vận chuyển nhu yếu phẩm và người trong trận Downs làm suy yếu sức mạnh quân Tây Ban Nha. Sau đó vào năm 1643, quân Pháp đã đánh bại Quân đội Flanders trong trận Rocroi.

Sự can thiệp của Pháp và bất hòa nội bộ do chiến tranh Hà Lan đã dẫn đến sự thay đổi trong chính sách 'Hà Lan trên hết' của Tây Ban Nha và Tây Ban Nha chuyển sự tập trung vào việc đàn áp cuộc nổi dậy của người Catalan do Pháp hậu thuẫn.[3] Sau trận Rocroi, Pháp đã giành được phần lớn Nam Hà Lan, và các nhà lãnh đạo Hà Lan như Andries BickerCornelis de Graeff lo ngại rằng kẻ hưởng lợi chính của việc tiếp tục chiến tranh sẽ là Pháp. Những nỗi lo ngại này gia tăng bởi các đề xuất về hiệp ước giữa Tây Ban Nha và Pháp sẽ được củng cố thông qua cuộc hôn nhân giữa Louis XIV của Pháp và con gái của Felipe IV của Tây Ban Nha. Một kết cục như vậy sẽ đe dọa Hà Lan vì triều đình Pháp sẽ hưởng quyền của hồi môn toàn miền Nam Hà Lan và đe dọa các tỉnh phía Bắc.[lower-alpha 4][4] Những yếu tố này làm gia tăng sự cấp bách của cả hai bên nhằm kết thúc cuộc chiến tranh.